1 Phân tích tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành 29/03/12, 09:57 pm
[KiNg]_[PiN]-BB
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Rừng xà nu
là tác phẩm để lại một dấu ấn sâu đậm trong kí ức mỗi chúng ta . Nguyễn
Trung Thành được coi như là nhà văn của Tây Nguyên theo đúng nghĩa của
nó . Cả cuộc đời ông sống, chiến đấu và gắn bó với núi rừng , với đồng
bào Tây Nguyên dù ông không hề được sinh ra trên mảnh đất này . Ông cũng
chính là người phản ánh một cách sinh động đời sống, tính cách và tâm
hồn đồng bào Tây Nguyên trong tác phẩm của mình , và phần Tây Nguyên đó
được đánh giá là hay nhất trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn .
Với vốn sống phong phú và một sự gắn bó đến kì lạ, mảnh đất Tây
Nguyên đi vào tác phẩm của Nguyễn Trung Thành một cách tự nhiên, chân
chất như cái bụng của đồng bào các dân tộc anh em nơi đây, và một trong
những sáng tạo nghệ thuật để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc
là Rừng xà nu . Tác phẩm không chỉ đề cập đến lòng yêu nước quật cường,
tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của đồng bào Tây Nguyên trong cuộc
trường kì kháng chiến chống Mĩ , mà quan trọng hơn, khắc hoạ chân dung
những con người anh dũng đã chiến đấu vì lí tưởng, trong mối quan hệ mật
thiết với thiên nhiên núi rừng .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
1 . Hình tượng cây xà nu .
Nguyễn Trung Thành
có sở trường viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen thuộc với ông
từ ngày viết Đất nướcđứng lên . Nay lai được trở về với vùng đất ấy, tác
giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt là rừng xà nu
chạy tít tắp tới tận chân trời . Nhà văn đã từng thốt lên : Tôi yêu say
mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó . Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tượng
mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và nhan đề tác phẩm ra đời từ đó
.
Xà nu,
một loại cây họ thông mọc thành rừng , man dại mà trong sạch, hùng vĩ
mà cao thượng . Thân cây cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa
thanh nhã, rừng xà nu gồm hàng vạn , hàng triệu cây nối tiếp nhau vô tận
tạo nên màu xanh mỡ màng cho núi rừng Tây Nguyên, thành một nét đặc
trưng riêng biệt của Tây Nguyên .
Cây xà nu
có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào
Tây Nguyên mà cụ thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay : Ngọn lửa xà nu
trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng đêm, đống lửa xà
nu ở nhà cụ Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về ... rồi xà
nu tham gia vào những sự kiện trọng đại của làng Xô Man : Dưới ánh lửa
xà nu người dân Xô Man đêm đêm mài vũ khí chuẩn bị kháng chiến ...
Truyện có đến hơn hai mươi lần nhắc đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác
nhau . Như vậy không có cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc dáng, cho sức
mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu . Tên tác phẩm đã cô đúc chủ đề
tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng
vĩ của núi rừng Tây Nguyên .
Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành
đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với hình thượng dân làng Xô Man yêu
nước . Xà nu cũng như dân làng chịu nhiều đau thương . Những ngày cách
mạng Việt Nam còn chìm trong bão tố chiến tranh, dân làng Xô Man cũng
như rừng xà nu cùng chung số phận : Làng ở trong tầm đại bác của giặc,
chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày ... Sự sống nằm trong sự huỷ
diệt của bạo tàn, của bom đạn chiến tranh . Do vậy cả rừng xà nu không
cây nào không bị thương . Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đôi,
gục ngã nhưng cũng có cây xà nu chỉ để lại vết thương nhẹ , chóng lành .
Cũng như xà nu, những con người Xô Man, thân thể và trái tim họ đầy
thương tích . Cũng có những đời người như những cây xà nu bị chặt đứt
tuổi xuân . Mai ngã xuống khi hạnh phúc lứa đôi và tình yêu tuỏi trẻ
đang tràn trề ... Đó là chuỗi ngày đau thương của người dân làng Xô Man,
những quần chúng bị giết vì nuôi cán bộ . Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị
chặt đầu ... lưng Tnú ngang dọc những vết dao, mười đầu ngón tay anh bị
kẻ thù thiêu cháy . Những người con ưu tú đã ngã xuống : anh Quyết, Mai,
cả đứa con thân yêu của Tnú ... nhưng cũng như cây xà nu niềm tin bất
diệt vào cuộc sống đã giúp họ vươn lên, vượt qua đau thương để chờ đón
ngày ngày hạnh phúc .
Nguyễn Trung Thành lấy
hình tượng cây xà nu đặt trong mối tương quan mật thiết với con người
không phải chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt . Rừng xà nu còn là
hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt . Bản năng tự bảo tồn và sự
thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng
được sự huỷ diệt của đạn bom . Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái
chết đối diện nhau, sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt . Cũng
giống như lịch sử của dân làng Xô Man , đó là lịch sử của sự sống không
bao giờ bị dập tắt , một tư thế sống không hề biết cúi đầu . Thanh niên
không thể nuôi cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lượt
Mai, Tnú , và khi Mai không còn nữa đã có Dít thay thế ... đến cả Tnú,
khi mười đầu ngón tay không còn nữa, anh vẫn ra đi làm chiến sĩ giải
phóng quân bởi anh nghĩ còn cử động ngón tay được nghĩa là còn khả năng
cầm súng chiến đấu . ý chí của Tnú hay nói cách khác, khát vọng sống và
bảo vệ cuộc sống trong anh nói riêng và của dân làng Xô Man nói chung là
mạch nguồn để chiến thắng cái chết, chiến thắng bạo tàn .
Bên cạnh đó cây xà nu
còn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống như dân làng Xô
Man yêu thích tự do . Họ biết yêu thương gắn bó với quê hương, gắn bó
với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ : Đảng còn, Bác Hồ còn là
đất nước này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhưng chân thật . Các
thế hệ dân làng Xô Man, từ những người cao tuổi như cụ Mết vẫn khoẻ
mạnh, quắc thước, rắn chắc như một cây xà nu lớn, hay những lớp thanh
niên trẻ hơn , những lớp mang non đều nỗ lực vươn lên, vượt qua sự huỷ
diệt như những cây xà nu lao vút lên bầu trời nhọn hoắt như những mũi
lê .
Lấy hình tượng cây xà nu
và sức sống mãnh liệt của nó , Nguyễn Trung Thành khắc hoạ sâu hơn tính
cách con người Tây Nguyên : anh dũng, kiên cường . Cây xà nu trở thành
hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tượng cho sức sống mới và từ đó những con
người hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hướng tới cuộc
sống .
2 . Nhân vật Tnú .
Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng .
Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên .
Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu
đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Sở dĩ trong “Rừng xà
nu”, ông phải đặt một tên khác vì nếu lấy tên Đề nó “người Kinh quá”,
gọi bằng Tnú “không khí hơn nhiều”, Tây Nguyên hơn nhiều . Tnú là hiện
thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như
lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và
sự tù đày cuả kẻ thù . Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn . Anh là
con của dân làng Xô Man . Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu
mang anh . “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này
nuôi nó . Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Chính
tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống ,
tin vào chính mình và không hề biết sợ hãi , không hề biết khuất phục
dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên
lưng . Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho
cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện . Và cũng từ đấy Tnú
bộc lộ một trí tuệ hơn người . “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa
chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con
cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục , qua
chỗ nước mạnh nó không ngờ” . Sức mạnh của Tnú còn được hun đúc bởi một
tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn . Vậy
mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù
giết hại . Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy
bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù . Tnú không cứu được vợ,
được con , đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự
bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng . Vì sao vậy ? Vì Tnú cũng chỉ có tay
không giữa quân thù đầy vũ khí . Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực
cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội
ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà
còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà
tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào
ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy
diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy
.
Tnú không cứu được mẹ con Mai … Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không
Tnú, mày không cứu được vợ mày …Tau không nhảy ra cứu mày . Tau cũng chỉ
có hai bàn tay không” . Những lời ấy của cụ Mết như một minh chứng cho
qui luật : không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm
thù mù quáng . Chỉ còn cách cầm vũ khí , lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên
bàn tay của Tnú . Lửa xà nu
chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang . Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động .
“Tiếng chuông nổi lên … và lửa cháy khắp rừng …Nghe rõ chưa các con, rõ
chưa . Nhớ lấy, ghi lấy . Sau này tau chết rồi , bay còn sống phải nói
lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo …” . Đó là
một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng.
Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó . Anh
đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và
cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược . Ra đi để trả
thù nước, rửa thù nhà . Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng
cử động được có nghĩa là cầm súng được . Anh đi bộ đội, trở thành tấm
gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man . Đối với dân làng, Tnú
là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí . Bên cạnh cụ Mết,
người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên . Mỗi
một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi . Anh về
thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người
thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội
mới là Tnú . Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh
mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói , một
hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và
tinh thần của người dân Xô Man .
Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thương mà không chỉ
riêng anh gánh chịu . Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái
đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh . Cùng với hình tượng
cây xà nu, Nguyễn Trung Thành một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù,
đồng thời nhấn mạnh khát vọng của con người , hướng tới tới tương lai và
ánh sáng . Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời phán quyết thiêng
liêng của lịch sử : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo .
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công
miêu tả đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy
hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật .
Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là
bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy , bàn tay cầm đá ghè vào đầu để
trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng
sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là
đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật .
Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón
tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh
“nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng . Máu anh mặn chát ở
đầu lưỡi” . Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân
làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt
lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng . Từ đây bàn tay của
Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về
tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay
tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết
tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm .
Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả
câu chuyện . Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công
của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy .
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng
bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng . Qua nhân vật này Nguyễn
Trng Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây
Nguyên, nhân dân Miền nam trong quá trình đấu tranh giải phóng .
3 . Chất sử thi của “Rừng xà nu” .
Truyện ngắn “Rừng xà nu”
tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975, đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước .
Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học . Đó
là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh
những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật
trung tâm trong những tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi thường là
những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất
cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đòng. Và khi khẳng định,
ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói ..., người nghệ sĩ
không nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng.
Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn .
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”,
khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở việc lựa chọn đề tài, việc
xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm ...
Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng
không chỉ của cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam.
Truyện viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam
những năm đen tối sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cho đến lúc Đồng khởi, nhưng
đây là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang
chiến đấu . Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi : trước sự tàn ác
của kẻ thù, nhân dân Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ
khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương. Những nhân vật trong tác
phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những kết tinh cao độ
những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung
thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng
cảm chiến đấu hi sinh ...) . Lí tưởng sống của những nhân vật này luôn
gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật ở đây cũng
được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ cách mạng làng Xô
Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến chống thực
dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân
làng; Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là
thế hệ non trẻ tiếp nối cha anh ... Vì thế, tất cả só phận của mọi nhân
vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với số phận của cả cộng đồng.
Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm .
Ngoài ra, chất sử thi của tác phẩm còn bộc lộ qua cách trần thuật.
Câu chuyện về cuộc đời của nhân vật Tnú và cuộc nỏi dậy của dân làng Xô
Man thực ra là một câu chuyện hiện đại, vừa mới diễn ra. Tuy vậy, chúng
được kể như một câu chuyện của lịch sử với không khí và thái độ trang
nghiêm, đầy ngưỡng vọng giống như lối kể về các tù trưởng hùng mạnh tiêu
biểu cho ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng trong các sử thi
Đam San, Xinh Nhã ... của các bộ tộc Tây Nguyên .
Trong “Rừng xà nu”,
Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được nhiều hình ảnh chói lọi, kì vĩ như
hình cây xà nu, rừng xà nu, hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú . Giọng
văn trong truyện là giọng văn trang trọng, trang nghiêm, hùng tráng .
Đấy cũng là giọng văn và hình ảnh của sử thi .
Như vậy, chất sử thi thể hiện qua nhiều yếu tố của tác phẩm , đặc
biệt trong việc khắc hoạ tư tưởng, chủ đề của “Rừng xà nu” .
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Rừng xà nu
là truyện của một người nhưng qua đó ta thấy được số phận của cả một
dân tộc . Đó là bức tranh hoành tráng , hoành tráng trong hình ảnh, với
vóc dáng vạm vỡ của cao cả của rừng núi và của con người và hoành tráng
trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết
trang nghiêm .
Rừng xà nu
là tác phẩm để lại một dấu ấn sâu đậm trong kí ức mỗi chúng ta . Nguyễn
Trung Thành được coi như là nhà văn của Tây Nguyên theo đúng nghĩa của
nó . Cả cuộc đời ông sống, chiến đấu và gắn bó với núi rừng , với đồng
bào Tây Nguyên dù ông không hề được sinh ra trên mảnh đất này . Ông cũng
chính là người phản ánh một cách sinh động đời sống, tính cách và tâm
hồn đồng bào Tây Nguyên trong tác phẩm của mình , và phần Tây Nguyên đó
được đánh giá là hay nhất trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn .
Với vốn sống phong phú và một sự gắn bó đến kì lạ, mảnh đất Tây
Nguyên đi vào tác phẩm của Nguyễn Trung Thành một cách tự nhiên, chân
chất như cái bụng của đồng bào các dân tộc anh em nơi đây, và một trong
những sáng tạo nghệ thuật để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc
là Rừng xà nu . Tác phẩm không chỉ đề cập đến lòng yêu nước quật cường,
tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của đồng bào Tây Nguyên trong cuộc
trường kì kháng chiến chống Mĩ , mà quan trọng hơn, khắc hoạ chân dung
những con người anh dũng đã chiến đấu vì lí tưởng, trong mối quan hệ mật
thiết với thiên nhiên núi rừng .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
1 . Hình tượng cây xà nu .
Nguyễn Trung Thành
có sở trường viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen thuộc với ông
từ ngày viết Đất nướcđứng lên . Nay lai được trở về với vùng đất ấy, tác
giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt là rừng xà nu
chạy tít tắp tới tận chân trời . Nhà văn đã từng thốt lên : Tôi yêu say
mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó . Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tượng
mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và nhan đề tác phẩm ra đời từ đó
.
Xà nu,
một loại cây họ thông mọc thành rừng , man dại mà trong sạch, hùng vĩ
mà cao thượng . Thân cây cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa
thanh nhã, rừng xà nu gồm hàng vạn , hàng triệu cây nối tiếp nhau vô tận
tạo nên màu xanh mỡ màng cho núi rừng Tây Nguyên, thành một nét đặc
trưng riêng biệt của Tây Nguyên .
Cây xà nu
có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào
Tây Nguyên mà cụ thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay : Ngọn lửa xà nu
trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng đêm, đống lửa xà
nu ở nhà cụ Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về ... rồi xà
nu tham gia vào những sự kiện trọng đại của làng Xô Man : Dưới ánh lửa
xà nu người dân Xô Man đêm đêm mài vũ khí chuẩn bị kháng chiến ...
Truyện có đến hơn hai mươi lần nhắc đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác
nhau . Như vậy không có cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc dáng, cho sức
mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu . Tên tác phẩm đã cô đúc chủ đề
tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng
vĩ của núi rừng Tây Nguyên .
Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành
đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với hình thượng dân làng Xô Man yêu
nước . Xà nu cũng như dân làng chịu nhiều đau thương . Những ngày cách
mạng Việt Nam còn chìm trong bão tố chiến tranh, dân làng Xô Man cũng
như rừng xà nu cùng chung số phận : Làng ở trong tầm đại bác của giặc,
chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày ... Sự sống nằm trong sự huỷ
diệt của bạo tàn, của bom đạn chiến tranh . Do vậy cả rừng xà nu không
cây nào không bị thương . Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đôi,
gục ngã nhưng cũng có cây xà nu chỉ để lại vết thương nhẹ , chóng lành .
Cũng như xà nu, những con người Xô Man, thân thể và trái tim họ đầy
thương tích . Cũng có những đời người như những cây xà nu bị chặt đứt
tuổi xuân . Mai ngã xuống khi hạnh phúc lứa đôi và tình yêu tuỏi trẻ
đang tràn trề ... Đó là chuỗi ngày đau thương của người dân làng Xô Man,
những quần chúng bị giết vì nuôi cán bộ . Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị
chặt đầu ... lưng Tnú ngang dọc những vết dao, mười đầu ngón tay anh bị
kẻ thù thiêu cháy . Những người con ưu tú đã ngã xuống : anh Quyết, Mai,
cả đứa con thân yêu của Tnú ... nhưng cũng như cây xà nu niềm tin bất
diệt vào cuộc sống đã giúp họ vươn lên, vượt qua đau thương để chờ đón
ngày ngày hạnh phúc .
Nguyễn Trung Thành lấy
hình tượng cây xà nu đặt trong mối tương quan mật thiết với con người
không phải chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt . Rừng xà nu còn là
hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt . Bản năng tự bảo tồn và sự
thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng
được sự huỷ diệt của đạn bom . Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái
chết đối diện nhau, sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt . Cũng
giống như lịch sử của dân làng Xô Man , đó là lịch sử của sự sống không
bao giờ bị dập tắt , một tư thế sống không hề biết cúi đầu . Thanh niên
không thể nuôi cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lượt
Mai, Tnú , và khi Mai không còn nữa đã có Dít thay thế ... đến cả Tnú,
khi mười đầu ngón tay không còn nữa, anh vẫn ra đi làm chiến sĩ giải
phóng quân bởi anh nghĩ còn cử động ngón tay được nghĩa là còn khả năng
cầm súng chiến đấu . ý chí của Tnú hay nói cách khác, khát vọng sống và
bảo vệ cuộc sống trong anh nói riêng và của dân làng Xô Man nói chung là
mạch nguồn để chiến thắng cái chết, chiến thắng bạo tàn .
Bên cạnh đó cây xà nu
còn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống như dân làng Xô
Man yêu thích tự do . Họ biết yêu thương gắn bó với quê hương, gắn bó
với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ : Đảng còn, Bác Hồ còn là
đất nước này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhưng chân thật . Các
thế hệ dân làng Xô Man, từ những người cao tuổi như cụ Mết vẫn khoẻ
mạnh, quắc thước, rắn chắc như một cây xà nu lớn, hay những lớp thanh
niên trẻ hơn , những lớp mang non đều nỗ lực vươn lên, vượt qua sự huỷ
diệt như những cây xà nu lao vút lên bầu trời nhọn hoắt như những mũi
lê .
Lấy hình tượng cây xà nu
và sức sống mãnh liệt của nó , Nguyễn Trung Thành khắc hoạ sâu hơn tính
cách con người Tây Nguyên : anh dũng, kiên cường . Cây xà nu trở thành
hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tượng cho sức sống mới và từ đó những con
người hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hướng tới cuộc
sống .
2 . Nhân vật Tnú .
Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng .
Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên .
Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu
đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Sở dĩ trong “Rừng xà
nu”, ông phải đặt một tên khác vì nếu lấy tên Đề nó “người Kinh quá”,
gọi bằng Tnú “không khí hơn nhiều”, Tây Nguyên hơn nhiều . Tnú là hiện
thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như
lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và
sự tù đày cuả kẻ thù . Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn . Anh là
con của dân làng Xô Man . Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu
mang anh . “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này
nuôi nó . Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Chính
tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống ,
tin vào chính mình và không hề biết sợ hãi , không hề biết khuất phục
dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên
lưng . Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho
cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện . Và cũng từ đấy Tnú
bộc lộ một trí tuệ hơn người . “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa
chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con
cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục , qua
chỗ nước mạnh nó không ngờ” . Sức mạnh của Tnú còn được hun đúc bởi một
tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn . Vậy
mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù
giết hại . Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy
bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù . Tnú không cứu được vợ,
được con , đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự
bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng . Vì sao vậy ? Vì Tnú cũng chỉ có tay
không giữa quân thù đầy vũ khí . Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực
cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội
ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà
còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà
tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào
ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy
diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy
.
Tnú không cứu được mẹ con Mai … Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không
Tnú, mày không cứu được vợ mày …Tau không nhảy ra cứu mày . Tau cũng chỉ
có hai bàn tay không” . Những lời ấy của cụ Mết như một minh chứng cho
qui luật : không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm
thù mù quáng . Chỉ còn cách cầm vũ khí , lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên
bàn tay của Tnú . Lửa xà nu
chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang . Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động .
“Tiếng chuông nổi lên … và lửa cháy khắp rừng …Nghe rõ chưa các con, rõ
chưa . Nhớ lấy, ghi lấy . Sau này tau chết rồi , bay còn sống phải nói
lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo …” . Đó là
một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng.
Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó . Anh
đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và
cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược . Ra đi để trả
thù nước, rửa thù nhà . Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng
cử động được có nghĩa là cầm súng được . Anh đi bộ đội, trở thành tấm
gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man . Đối với dân làng, Tnú
là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí . Bên cạnh cụ Mết,
người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên . Mỗi
một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi . Anh về
thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người
thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội
mới là Tnú . Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh
mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói , một
hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và
tinh thần của người dân Xô Man .
Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thương mà không chỉ
riêng anh gánh chịu . Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái
đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh . Cùng với hình tượng
cây xà nu, Nguyễn Trung Thành một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù,
đồng thời nhấn mạnh khát vọng của con người , hướng tới tới tương lai và
ánh sáng . Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời phán quyết thiêng
liêng của lịch sử : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo .
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công
miêu tả đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy
hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật .
Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là
bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy , bàn tay cầm đá ghè vào đầu để
trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng
sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là
đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật .
Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón
tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh
“nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng . Máu anh mặn chát ở
đầu lưỡi” . Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân
làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt
lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng . Từ đây bàn tay của
Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về
tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay
tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết
tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm .
Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả
câu chuyện . Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công
của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy .
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng
bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng . Qua nhân vật này Nguyễn
Trng Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây
Nguyên, nhân dân Miền nam trong quá trình đấu tranh giải phóng .
3 . Chất sử thi của “Rừng xà nu” .
Truyện ngắn “Rừng xà nu”
tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975, đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước .
Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học . Đó
là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh
những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật
trung tâm trong những tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi thường là
những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất
cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đòng. Và khi khẳng định,
ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói ..., người nghệ sĩ
không nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng.
Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn .
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”,
khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở việc lựa chọn đề tài, việc
xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm ...
Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng
không chỉ của cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam.
Truyện viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam
những năm đen tối sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cho đến lúc Đồng khởi, nhưng
đây là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang
chiến đấu . Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi : trước sự tàn ác
của kẻ thù, nhân dân Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ
khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương. Những nhân vật trong tác
phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những kết tinh cao độ
những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung
thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng
cảm chiến đấu hi sinh ...) . Lí tưởng sống của những nhân vật này luôn
gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật ở đây cũng
được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ cách mạng làng Xô
Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến chống thực
dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân
làng; Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là
thế hệ non trẻ tiếp nối cha anh ... Vì thế, tất cả só phận của mọi nhân
vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với số phận của cả cộng đồng.
Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm .
Ngoài ra, chất sử thi của tác phẩm còn bộc lộ qua cách trần thuật.
Câu chuyện về cuộc đời của nhân vật Tnú và cuộc nỏi dậy của dân làng Xô
Man thực ra là một câu chuyện hiện đại, vừa mới diễn ra. Tuy vậy, chúng
được kể như một câu chuyện của lịch sử với không khí và thái độ trang
nghiêm, đầy ngưỡng vọng giống như lối kể về các tù trưởng hùng mạnh tiêu
biểu cho ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng trong các sử thi
Đam San, Xinh Nhã ... của các bộ tộc Tây Nguyên .
Trong “Rừng xà nu”,
Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được nhiều hình ảnh chói lọi, kì vĩ như
hình cây xà nu, rừng xà nu, hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú . Giọng
văn trong truyện là giọng văn trang trọng, trang nghiêm, hùng tráng .
Đấy cũng là giọng văn và hình ảnh của sử thi .
Như vậy, chất sử thi thể hiện qua nhiều yếu tố của tác phẩm , đặc
biệt trong việc khắc hoạ tư tưởng, chủ đề của “Rừng xà nu” .
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Rừng xà nu
là truyện của một người nhưng qua đó ta thấy được số phận của cả một
dân tộc . Đó là bức tranh hoành tráng , hoành tráng trong hình ảnh, với
vóc dáng vạm vỡ của cao cả của rừng núi và của con người và hoành tráng
trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết
trang nghiêm .