1 RỪNG XÀ NU – MỘT TRUYỆN NGẮN ĐẬM CHẤT SỬ THI THỜI ĐÁNH MỸ 29/03/12, 09:56 pm
[KiNg]_[PiN]-BB
RỪNG XÀ NU – một truyện ngắn đậm chất sử thi về thời đánh Mĩ
PHAN HUY DŨNG
Rừng xà nu được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày
bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. “Đó là những
ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng,
hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế
quốc Mĩ” [1].
Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn này
đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời hiện tại, và hiện thực được mô tả
mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện làng Xô Man trở thành chuyện của cả
“Đất nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử.
Hình tượng lớn lao bao trùm toàn bộ tác phẩm là hình tượng những cây
xà nu. Chính nó đã đem lại cho tác phẩm sức khái quát lớn cũng như sự
sinh động, chân thực như cuộc đời. Và trước hết nó khơi lên nguồn cảm
hứng dạt dào ở người viết, trở thành điểm tựa điểm gợi tứ để nhà văn suy
ngẫm về mạch sống của đất nước và sức sống của nhân dân. Không phải
ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần y nguyên đến hai lần ở
phần đầu và phần kết thúc của tác phẩm: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra
xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối
tiếp chân trời”. Đấy là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu
chuyện. Tác giả chưa bao giờ để gián đoạn mạch kể về rừng xà nu. Cây xà
nu khi thì tách ra, khi thì hòa nhập với con người. Tả cây xà nu tác giả
ưa dùng thủ pháp nhân hóa, còn khi là con người ông lại thường xuyên
liên hệ, so sánh với cây xà nu. “Xà nu”, “xà nu” – tác phẩm trùng trùng
điệp điệp với những “xà nu” và đó chính là điểm khá cơ bản quy định chất
thơ hào hùng của nó (thơ, như có người nhận xét, là một kết cấu trùng
điệp đầy âm vang).
Hãy trở lại với đoạn mở đầu của truyện ngắn. Nhà văn đã đem hết bút
lực của mình ra để tả một khu rừng xà nu. Đấy không phải là một khu rừng
xà nu chung chung mà là khu rừng xát cạnh làng Xô Man, kế bên con nước
lớn (nguồn sống của con người) và lọt trong tầm đại bác của đồn giặc.
Ngay từ đầu ta đã thấy rừng xà nu phải đối diện với những thử thách ác
liệt, dữ dội. Thương tích là không thể tránh khỏi: “Cả rừng xà nu hàng
vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang
nửa thân mình, đổ ngang như một trận bão”. Nhưng sức sống mãnh liệt của
cây xà nu mới là điều tác giả muốn nhấn mạnh: “Trong rừng ít có loại
cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm
cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu
trời”. Chúng khỏe vì chúng tha thiết với mặt trời: “Nó phóng lên rất
nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi trên cao xuống
từng luồng lớn thẳng tấp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay
ra, thơm mỡ màng”. Thật là một đoạn miêu tả sống động, giàu chất tạo
hình nhưng không chỉ có ý nghĩa tả thực. Rừng xà nu, đấy chính là một ẩn dụ
về con người: con người đau khổ, con người bất khuất, con người khát
khao tự do, con người của truyền thống anh hùng lớp trước lớp sau liên
tục đứng lên bảo vệ phẩm giá của mình … Thêm nữa, rừng xà nu ở đây còn
là một hình tượng tượng trưng, một biểu tượng cho con
người Tây Nguyên, cho cả một dân tộc hiệp sĩ : “rừng xà nu ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra, che chở cho làng”. Trong hành động ưỡn tấm ngực lớn
chứa đựng biết bao nhiêu là kiêu hãnh, nó biểu thị một phẩm chất phóng
khoáng, hào hiệp và là một hành động tự nguyện do xác định được đúng vị
trí đứng đầu bão táp của mình. Để diễn tả một nội dung phong phú như vậy
qua hình tượng cây xà nu, tác giả đã sử dụng một giọng văn thiết tha
pha chút cường điệu. Nhiều lúc như không nén nổi những xúc động đang
tràn ngập vì yêu thương, vì yêu thương và cả kính trọng nữa, nhà văn đã
thốt lên những lời nhận xét trực tiếp, để lộ cái tôi của mình “Trong
rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khoẻ như vậy”, “Cũng ít có loại cây
ham ánh sáng mặt trời đến thế”. Hàng loạt động từ, trạng từ gây cảm giác
mạnh được huy động cho mục đích miêu tả: ào ào, ứa, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, gay gắt, bầm, ngã gục, lao thẳng, phóng, vượt, ưỡn .v.v. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng rất đắt cái nhìn của điện ảnh để cho sự vật hiện lên động và nét
hơn. Ống kính của ông khi thì lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà
nu, khi lại rà sát, soi kỹ dáng vươn lên kiêu dũng của những cây xà nu
con. Có lúc tác giả quay chếch ống kính để trước mắt ta, màn ảnh như
chao đảo: một cảnh tượng tuyệt vời nên thơ, tráng lệ hiện ra: “ánh nắng
trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp …”.
Mạch cảm xúc đã được khơi lên. Hướng đi của ngòi bút đã được hình
dung. Điểm “neo” những ấn tượng và quan sát phong phú đã được xác định
với một cái làng cụ thể. Từ đây toàn bộ câu chuyện cứ thế mà tuôn chảy
và hiện rõ trước mắt người viết, người đọc mồn một từng chi tiết từng
hình ảnh.
Chuyện làng Xô Man được bắt đầu từ thời điểm hiện tại: “Ba năm đi lực
lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con
nước lớn dẫn anh về” đấy là những lời kể cô đúc hé lộ một lịch sử và báo
hiệu một đổi thay. Quả thực làng Xô Man đã đổi thay nhiều lắm so với
ngày Tnú ra đi. Khắp núi rừng đâu cũng có cạm bẫy chờ sẵn “chờ đón” quân
thù. Một lớp người mới trưởng thành đứng ra gánh vác công việc kháng
chiến. Sinh hoạt trong một làn vui tươi và có quy củ. Tất cả toát lên
một vẻ hồ hởi tự tin khiến cho Tnú không khỏi có chút ngỡ ngàng. Phải
nói rằng sự lựa chọn thời điểm bắt đầu câu chuyện hết sức thích hợp. Tất
cả phải từ hôm nay và cho hôm nay, cũng y như mục đích kể chuyện tại
nhà Ưng của cụ Mết. Đó là sự chuẩn bị tinh thần để bước vào một thử
thách to lớn mới. Những lời nhắc nhở trầm vang như tiếng chiêng, cồng
của cụ Mết: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương
nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ …” cũng chính là lời nhắn gửi của độc
giả, trước hết là độc giả của thời kỳ lịch sử ấy.
Ra đời trong một thời điểm hào hùng của lịch sử, lại kể về những sự
việc có tầm vóc thời đại, giọng điệu trần thuật có màu sắc anh hùng ca
đã được sử dụng rất đắc địa. Lời kể của tác giả đã hoà lẫn với lời kể
của cụ Mết và dòng hồi tưởng của Tnú một cách hết sức tự nhiên. Cái bi
tráng của một giai đoạn cách mạng cùng khí thế chiến đấu bừng bừng của
buôn làng Tây Nguyên ngày nổi dậy đã được tái hiện với đúng “chất” của
nó. Trên dài đất cao nguyên hùng vĩ này từng có người dân sống nghẹt thở
dưới ách áp bức, khủng bố bạo tàn của Mĩ Diệm.
Khắp nơi đều có dấu vết tội ác của chúng. Thiên nhiên bị tàn phá.
Nhân dân bị chém giết. Chúng “đi trong rừng xà nu như con beo” với những
“lưỡi lê dính máu”. Quả là chúng đang làm chủ cả núi rừng, nhưng là
cách làm chủ của beo sói. Khi kể chuyện Tnú hồi nhỏ đi liên lạc bị giặc
bắt, có đến ba lần tác giả nói đến vết dao trên lưng em. Đó là một chi
tiết nghệ thuật tiêu biểu tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ngay tấm lưng
nhỏ bé, non trẻ “rộng chưa bằng bề ngang của cái xà lét mẹ để lại”
dường như sinh ra để cha mẹ vuốt ve cũng phải hứng chịu những sự vùi dập
tàn bạo, phũ phàng nhất. Ở một đoạn khác, khi nói đến tình thế bị o ép
dữ dội của dân làng Xô Man trước ngày khởi nghĩa, tác giả đã có dụng ý
mô tả môt loạt âm thanh kinh khủng, đó là tiếng cười sằng sặc, giần giật
của thằng Dục ác ôn, tiếng roi vun vút, tiếng gậy sắt nện hừ hự xuống
thân người …
Nhưng sự việc đã diễn ra theo đúng quy luật có áp bức có đấu tranh,
và một chân lí cách mạng dần dần được làm sáng tỏ: “chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo”. Rừng xà nu không chỉ chuyện làng Xô Man trong
đau thương mà chủ yếu là chuyện làng Xô Man đứng dậy. Tác giả đã rất
thành công khi xây dựng chân dung một tập thể anh hùng. Họ gồm những cụ
Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng … mỗi người mỗi vẻ nhưng đều
giống nhau ở sự gan góc, ở lòng trung thành với cách mạng. Sự gan góc,
trung thành ấy không biểu hiện ồn ào. Nó ít lời mà dồn nén biết bao dữ
dội. Tnú bị bắt, cụ Mết chỉ nói: “Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man”. Tnú
trả lời bằng bằng một cái nhìn. Giặc cởi trói cho Tnú để em chỉ chỗ
người cộng sản, Tnú để bàn tay lên bụng mình nói “Ở đây này”. Rồi đôi
mắt của Mai, cái nhìn của Dít .. rõ ràng đó là cái im lặng của những
người đã chịu nhiều đau khổ, cái im lặng đầy sức mạnh, đầy đe dọa với
quân thù, nó báo trước sự bùng nổ ghê gớm của lòng căm giận. Trong tác
phẩm còn có một đoạn rất đáng chú ý khác nói về sự dũng cảm của Dít
trước quân ác thú. Có thể nói trong khoảnh khắc, Dít đã lớn rất nhiều,
thoạt đầu Dít khóc thét lên khi bị chúng bắn dọa. Nhưng đến viên đạn thứ
mười, Dít đã chùi nước mắt, bình thản nhìn về bọn giặc. Đây là một chi
tiết giàu tính tượng trưng. Không thể nói sự thay đổi đó của Dít như nói
về một sự trấn tĩnh bình thường. Trong tình thế khó khăn con người phải
tự lớn vượt lên mau chóng nếu không sẽ bị đè bẹp. Dềnh dàng là chết.
Điều đó đúng với cả làng Xô Man, cả Tây Nguyên và cả cách mạng miền Nam
ngày ấy.
Trong nhiều nguyên nhân tạo nên sức quật khởi của làng Xô Man mà tác
giả có ý thức nêu lên, nguyên nhân thuộc về truyền thống lịch sử đã được
biểu hiện qua một hình tượng sinh động: cụ Mết. Đúng là tác giả viết
trong một bài hồi ức: “Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên
còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che
lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn sành sỏi và
tự giác hơn của thế hệ sau”. Để tả cụ Mết tác giả thường mượn những đặc
tính của cây xà nu làm đối tượng so sánh: ngực cụ “căng như một cây xà
nu lớn”, còn bàn tay “nặng như sắt” của cụ thì “sần sùi như vỏ cây xà
nu” tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt: “nặng trịch”, “ồ ồ” “dội vang
trong lồng ngực” tưởng như tiếng âm vọng của núi rừng. Đúng là không thể
hình dung nổi cuộc sống chiến đấu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
mà lại thiếu hình ảnh cụ Mết. Riêng đối với phương diện hình thức nghệ
thuật của tác phẩm, hình ảnh đó tạo nên màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên
từng trang viết và tạo những điểm nhấn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề,
những điểm nhấn gắn liền với các câu nói mang ý nghĩa tông kết, giáo dục
và kêu gọi của cụ: “Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy.
Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó
đã cầm súng, mình phải cầm giáo! …” có thể nói thêm: nếu thiếu hình ảnh
cụ Mết, tác phẩm sẽ thiếu đi một cơ sở quan trọng để sử dụng cái giọng
trầm hùng vang vọng rất sử thi như nó đã có.
Nhiều đêm bên bếp lửa trong nhà ưng, cụ Mết đã kể cho con cháu nghe
chuyện về anh Tnú. Đó là câu chuyện của thời hiện tại nhưng đã được lịch
sử hoá bởi nó quá tiêu biểu cho hành trình số phận của các dân tộc Tây
Nguyên thời đánh Mĩ. Cuộc đời của Tnú đã trải qua biết bao thử thách
khốc liệt ngay từ thuở còn thơ. Chính những thử thách ấy đã hun đúc nên
một con người mang nhiều phẩm chất tốt đẹp: gan dạ, trung thưc, một
lòng một dạ gắn bó với cách mạng. Khi lớn lên, hạnh phúc riêng vừa đánh
chết ngay trước mắt anh mà anh không làm gì được. Bản thân anh bị giặc
bắt và bị chúng đốt cụt mười đầu ngón tay. Từ nỗi đau thương và căm thù
đó, anh tham gia lực lượng quân giải phóng góp phần bảo vệ quê hương,
trở thành niềm tự hào của buôn làng, thánh tấm gương cho cụ Mết dùng để
giáo dục thế hệ sau. Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả
hai bàn tay của anh – hai bàn tay biết kể với chúng ta về số phận một
con người. Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với hầu hết các nhân
vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm nỗi bật nào đó
của họ. Phải chăng ở đây có dấu vết của cách giới thiệu nhân vật trong
sử thi? Dù sao đây cũng là một trong những đặc điểm hình thức khá nổi
bật của truyện ngắn này.
Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được
nhốt chặt trong một khuôn khổ hẹp. Niềm xúc động thiêng liêng về hình
ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn
Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô đọng
nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say
mê. Một tác phẩm xuất sắc khá xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt,
hào hùng.
Phan Huy Dũng, in trong Phân tích và bình giảng tác phẩm văn học lớp 12, Nxb GD, 1997.