1 ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM RỪNG XÀ NU CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH 29/03/12, 10:01 pm
[KiNg]_[PiN]-BB
Tác giả
Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành
là bút danh của Nguyễn Văn Báu. Sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Lăn lộn
nhiều năm trên chiến trường ác liệt cả trong 2 cuộc kháng chiến chống
Pháp và Chống Mĩ.
Tác phẩm: “Đất nước đứng lên” (1956), “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” (1969), “Đất Quảng” (1973 – 1974),…
Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc tráng lệ, khuynh hướng sử thi… tạo nên cốt cách và vẻ đẹp văn chương của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành.
Xuất xứ
Truyện “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành
viết năm 1965, xuất hiện lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng
miền trung Trung Bộ, số 2 năm 1965 – năm 1969, in trong tập truyện ký
“Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
Tóm tắt truyện
Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con
nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố
chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến
làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh
về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng
cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và
lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là
bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú.
Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm
làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: “Tốt lắm rồi!” “Một đêm thôi, mai
lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!”. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ
làng nghe. Tiếng nói rất trầm. “Anh Tnú đó, nó đi Giải phóng quân đánh
giặc… Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Anh Xút bị
giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi
anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi
rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà đi,
lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nông thì bị giặc
bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về,
lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân
làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về
một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy
đồn Đắc Hà đưa lũ ác ôn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết
và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết
chết mẹ con Mai. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy
nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay anh. cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng
xông ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn
và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô
Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách
mạng…”
Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng
Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết
thằng chỉ huy… thằng Dục, “đúng chớ… chúng nó đứa nào cũng là thằng
Dục!”. Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau
cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời…
Chủ đề
Ca ngợi tinh thần quật khởi, chí khí cách mạng và sức sống mãnh liệt
của đồng bào các dân tộc và núi rừng Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh vũ
trang chống kẻ thù khát máu Mĩ - Diệm.
Hình tượng rừng xà nu
Rừng xà nu vừa là cảnh sắc hùng vĩ vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Mở đầu tác phầm là hình ảnh rừng xà nu cùng bá Heng đón Tnú đi bộ đội về thăm làng; phần cuối cũng là rừng xà nu trùng điệp tiễn người anh hùng của quê hương đi tìm Mĩ, Diệm để diệt.
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, nó vươn lên rất nhanh để tiếp
lấy ánh nắng… như Tnú, Mai, Dít, cụ Nết, bé Heng và dân làng Xô Man sống
và chiến đấu vì khát vọng tự do.
Nó cùng với dân làng Xô Man chung chịu gian nan và hy sinh. Anh Xút
bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc đốt cháy 10 đầu
ngón tay, mẹ con Mai bị giặc đập chết… Rừng xà nu
cũng bị đại bác giặc bắn suốt đêm ngày, hàng vạn cây không cây nào
không bị thương, có những cây non trúng đạn, chất dầu còn loãng, vết
thương cứ loét mãi ra rồi chết.
Rừng xà nu
mang sức sống mãnh liệt và khí phách lẫm liệt như lũ làng. Cạnh một cây
xà nu bị bắn gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình
mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Đã hai ba năm nay, trong mưa bom bão
đạn, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”.
Giặc định dùng nhựa xà nu, lửa xà nu dìm dân làng Xô Man vào biển
máu, nhưng chính lũ ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và trai làng
chém chết, xác chúng ngổn ngang quanh đống lửa xà nu.
Rừng xà nu trùng điệp, hút tầm mắt chạy đến chân trời là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân, người người lớp lớp. Nguyễn Trung Thành đã tạo nên những hình ảnh ẩn dụ, nhưng liên tưởng kỳ vĩ để miêu tả rừng xà nu hùng vĩ với tất cả lòng yêu mến tự hào.
Nguyễn Trung Thành
sau này có viết: “Hồi tháng năm năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào (…)
chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp
Lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu
ngay từ đó. Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong
sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn
rỏi…” (Về một truyện ngắn - Rừng xà nu).
Những dũng sĩ làng Xô Man
- Cụ Mết, già làng râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng, ngực căng như
một cây xà nu lớn. Cụ là một thủ lĩnh quân sự, linh hồn của cuộc chiến
đấu và chiến thắng. Chính dưới lưỡi mác sáng loáng của cụ là xác thằng
Dục ác ôn. Chính sau tiếng hô của cụ: “Chém! Chém hết” là những lưỡi mác
của trai làng vung lên và xác lũ giặc ngổn ngang trên nhà ưng! Chính cụ
đã khẳng định một chân lý cách mạng để đi tới tự do: “Chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo”. Sau chiến công đầu vị già làng đã truyền
hịch:
“Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn
bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một
cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”
Tiếng hịch ấy đã vang dội núi rừng. Và lửa cháy khắp rừng. Cụ Mết
mang tầm vóc và khí phách như một anh hùng bộ tộc xa xưa trong trường ca
Tây Nguyên. Khuynh hướng sử thi bao trùm nhân vật xuất chúng này để ta
yêu mến và khâm phục.
Mai và Dít tiêu biểu cho những người con gái Tây Nguyên thời đánh
Mĩ. Bà Nhan bị giặc chặt đầu đã có Mai vào rừng bảo vệ anh Quyết cán bộ.
Mai là hiện thân của lòng trung thành với cách mạng, cần mẫn, hiền dịu,
sáng dạ, bất khuất hiên ngang trước súng đạn quân thù. Dít lớn lên, lại
đi tiếp con đường của chị. Đi tiếp tế cho du kích, bị giặc bắt, phải
làm bia đạn, sau mỗi viên đạn nổ “đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản
lạ lùng”. Ba năm sau ngày chị hy sinh, Dít đã trưởng thành, trở thành
một bí thư chi bộ, một chính trị viên xã đội lãnh đạo cuộc chiến đấu của
dân làng Xô Man. Trong mỗi quan hệ mới với Tnú, cô Dít với tư cách lãnh
đạo đã nghiêm trang trong thủ tục hỏi giấy tờ người lính từ mặt trận về
thăm làng: “Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy ban phải bắt
thôi”. Là cô gái, là em chị Mai, cô Dít đã nhìn Tnú bằng “đôi mắt mở to,
bình thản, trong suốt” chan chứa yêu thương và như cô đã nói với Tnú:
“Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”. Mai và Dít đều mang vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới: “Anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang”…
- Tnú là một anh hùng đích thực. Cụ Mết rất tự hào nói về anh:
“Nó là người Strá mình – Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi
nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Yêu cách mạng
và khao khát tự do. Tnú đã vào rừng bảo vệ, tiếp tế cho cán bộ hoạt
động bí mật. Tnú học chữ để mai sau thay anh Quyết làm cán bộ. Dũng cảm
và mưu trí lúc vượt thác, lúc cắt rừng đi liên lạc. Trung thành và bất
khuất. Nuốt thư bí mật khi bị địch bắt. Giặc tra tấn bắt khai ai là cộng
sản, Tnú đặt tay lên bụng mình, nói: “Ở đây này”. Tnú sống với niềm
tin: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Tnú vượt ngục trở về
làng, độc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho lũ làng nghe rồi anh đi lên
núi Ngọc Linh lấy một gùi đá mài đem về để dân làng Xô Man mài giáo,
mác, dụ, rựa, chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu thì vợ con
anh bị giặc đập chết. Cứu mẹ con Mai không được, anh bị giặc bắt trói
bằng dây rừng, bị giặc đốt mười ngón tay bằng nhựa xà nu thành mười ngọn
đuốc. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, nhưng lẫm liệt,
khí phách: hiên ngang. Tnú không thèm kêu van!
Tnú là một dũng sĩ kiên quyết đánh địch đến cùng. Núi rừng đã đốt lửa
lên rồi! Mười ngón tay, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt vẫn
cầm giáo, bắn súng được, anh đã lên đường đi tìm cách mạng, gia nhập
Giải phóng quân, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù cho mẹ con Mai,
cho lũ làng. Tnú đã chiến đấu dũng cảm, đã xung phong xuống hầm ngầm,
dùng tay bóp chết tên chỉ huy, cũng là một thằng Dục khát máu. Anh nhớ
làng, anh xin phép về thăm làng một đêm rồi anh lại ra đi chiến đấu!
Nguyễn Trung Thành,
với khuynh hướng sử thi đã khắc họa Tnú mang bao phẩm chất anh hùng lẫm
liệt. Tnú đi tiếp trong “Đất nước đứng lên”. Màu sắc núi rừng và hơi
hướng Tây Nguyên như ánh hào quang tỏa chiếu dũng sĩ Tnú.
Kết luận
Hình tượng rừng xà nu, hình ảnh những dũng sĩ anh hùng trong truyện
“Rừng xà nu” là hình ảnh đất nước và con người Việt Nam kiên cường, bất
khuất trong thời đại Hồ Chí Minh vừa đậm đà hơi hướng và cảnh quan hùng
vĩ Tây Nguyên. Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi hào hùng. Những anh hùng
dũng sĩ như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,… đại diện cho cộng đồng, chiến đấu
và hy sinh vì sự sống còn của cộng đồng, gắn bó với lịch sử cộng đồng,
được khắc họa bằng những hình ảnh chói lọi, với một giọng văn hào hùng,
say mê, trang trọng, tạo nên những trang văn tráng lệ mang âm hưởng anh
hùng ca.
Truyện “Rừng xà nu” thể hiện nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của Nguyễn Trung Thành vừa trang nghiêm thần kỳ, vừa đầy chất thơ tráng lệ./.
(Sưu tầm)
Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành
là bút danh của Nguyễn Văn Báu. Sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Lăn lộn
nhiều năm trên chiến trường ác liệt cả trong 2 cuộc kháng chiến chống
Pháp và Chống Mĩ.
Tác phẩm: “Đất nước đứng lên” (1956), “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” (1969), “Đất Quảng” (1973 – 1974),…
Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc tráng lệ, khuynh hướng sử thi… tạo nên cốt cách và vẻ đẹp văn chương của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành.
Xuất xứ
Truyện “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành
viết năm 1965, xuất hiện lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng
miền trung Trung Bộ, số 2 năm 1965 – năm 1969, in trong tập truyện ký
“Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
Tóm tắt truyện
Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con
nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố
chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến
làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh
về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng
cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và
lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là
bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú.
Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm
làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: “Tốt lắm rồi!” “Một đêm thôi, mai
lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!”. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ
làng nghe. Tiếng nói rất trầm. “Anh Tnú đó, nó đi Giải phóng quân đánh
giặc… Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Anh Xút bị
giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi
anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi
rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà đi,
lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nông thì bị giặc
bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về,
lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân
làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về
một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy
đồn Đắc Hà đưa lũ ác ôn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết
và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết
chết mẹ con Mai. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy
nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay anh. cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng
xông ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn
và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô
Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách
mạng…”
Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng
Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết
thằng chỉ huy… thằng Dục, “đúng chớ… chúng nó đứa nào cũng là thằng
Dục!”. Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau
cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời…
Chủ đề
Ca ngợi tinh thần quật khởi, chí khí cách mạng và sức sống mãnh liệt
của đồng bào các dân tộc và núi rừng Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh vũ
trang chống kẻ thù khát máu Mĩ - Diệm.
Hình tượng rừng xà nu
Rừng xà nu vừa là cảnh sắc hùng vĩ vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Mở đầu tác phầm là hình ảnh rừng xà nu cùng bá Heng đón Tnú đi bộ đội về thăm làng; phần cuối cũng là rừng xà nu trùng điệp tiễn người anh hùng của quê hương đi tìm Mĩ, Diệm để diệt.
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, nó vươn lên rất nhanh để tiếp
lấy ánh nắng… như Tnú, Mai, Dít, cụ Nết, bé Heng và dân làng Xô Man sống
và chiến đấu vì khát vọng tự do.
Nó cùng với dân làng Xô Man chung chịu gian nan và hy sinh. Anh Xút
bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc đốt cháy 10 đầu
ngón tay, mẹ con Mai bị giặc đập chết… Rừng xà nu
cũng bị đại bác giặc bắn suốt đêm ngày, hàng vạn cây không cây nào
không bị thương, có những cây non trúng đạn, chất dầu còn loãng, vết
thương cứ loét mãi ra rồi chết.
Rừng xà nu
mang sức sống mãnh liệt và khí phách lẫm liệt như lũ làng. Cạnh một cây
xà nu bị bắn gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình
mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Đã hai ba năm nay, trong mưa bom bão
đạn, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”.
Giặc định dùng nhựa xà nu, lửa xà nu dìm dân làng Xô Man vào biển
máu, nhưng chính lũ ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và trai làng
chém chết, xác chúng ngổn ngang quanh đống lửa xà nu.
Rừng xà nu trùng điệp, hút tầm mắt chạy đến chân trời là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân, người người lớp lớp. Nguyễn Trung Thành đã tạo nên những hình ảnh ẩn dụ, nhưng liên tưởng kỳ vĩ để miêu tả rừng xà nu hùng vĩ với tất cả lòng yêu mến tự hào.
Nguyễn Trung Thành
sau này có viết: “Hồi tháng năm năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào (…)
chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp
Lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu
ngay từ đó. Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong
sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn
rỏi…” (Về một truyện ngắn - Rừng xà nu).
Những dũng sĩ làng Xô Man
- Cụ Mết, già làng râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng, ngực căng như
một cây xà nu lớn. Cụ là một thủ lĩnh quân sự, linh hồn của cuộc chiến
đấu và chiến thắng. Chính dưới lưỡi mác sáng loáng của cụ là xác thằng
Dục ác ôn. Chính sau tiếng hô của cụ: “Chém! Chém hết” là những lưỡi mác
của trai làng vung lên và xác lũ giặc ngổn ngang trên nhà ưng! Chính cụ
đã khẳng định một chân lý cách mạng để đi tới tự do: “Chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo”. Sau chiến công đầu vị già làng đã truyền
hịch:
“Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn
bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một
cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”
Tiếng hịch ấy đã vang dội núi rừng. Và lửa cháy khắp rừng. Cụ Mết
mang tầm vóc và khí phách như một anh hùng bộ tộc xa xưa trong trường ca
Tây Nguyên. Khuynh hướng sử thi bao trùm nhân vật xuất chúng này để ta
yêu mến và khâm phục.
Mai và Dít tiêu biểu cho những người con gái Tây Nguyên thời đánh
Mĩ. Bà Nhan bị giặc chặt đầu đã có Mai vào rừng bảo vệ anh Quyết cán bộ.
Mai là hiện thân của lòng trung thành với cách mạng, cần mẫn, hiền dịu,
sáng dạ, bất khuất hiên ngang trước súng đạn quân thù. Dít lớn lên, lại
đi tiếp con đường của chị. Đi tiếp tế cho du kích, bị giặc bắt, phải
làm bia đạn, sau mỗi viên đạn nổ “đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản
lạ lùng”. Ba năm sau ngày chị hy sinh, Dít đã trưởng thành, trở thành
một bí thư chi bộ, một chính trị viên xã đội lãnh đạo cuộc chiến đấu của
dân làng Xô Man. Trong mỗi quan hệ mới với Tnú, cô Dít với tư cách lãnh
đạo đã nghiêm trang trong thủ tục hỏi giấy tờ người lính từ mặt trận về
thăm làng: “Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy ban phải bắt
thôi”. Là cô gái, là em chị Mai, cô Dít đã nhìn Tnú bằng “đôi mắt mở to,
bình thản, trong suốt” chan chứa yêu thương và như cô đã nói với Tnú:
“Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”. Mai và Dít đều mang vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới: “Anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang”…
- Tnú là một anh hùng đích thực. Cụ Mết rất tự hào nói về anh:
“Nó là người Strá mình – Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi
nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Yêu cách mạng
và khao khát tự do. Tnú đã vào rừng bảo vệ, tiếp tế cho cán bộ hoạt
động bí mật. Tnú học chữ để mai sau thay anh Quyết làm cán bộ. Dũng cảm
và mưu trí lúc vượt thác, lúc cắt rừng đi liên lạc. Trung thành và bất
khuất. Nuốt thư bí mật khi bị địch bắt. Giặc tra tấn bắt khai ai là cộng
sản, Tnú đặt tay lên bụng mình, nói: “Ở đây này”. Tnú sống với niềm
tin: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Tnú vượt ngục trở về
làng, độc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho lũ làng nghe rồi anh đi lên
núi Ngọc Linh lấy một gùi đá mài đem về để dân làng Xô Man mài giáo,
mác, dụ, rựa, chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu thì vợ con
anh bị giặc đập chết. Cứu mẹ con Mai không được, anh bị giặc bắt trói
bằng dây rừng, bị giặc đốt mười ngón tay bằng nhựa xà nu thành mười ngọn
đuốc. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, nhưng lẫm liệt,
khí phách: hiên ngang. Tnú không thèm kêu van!
Tnú là một dũng sĩ kiên quyết đánh địch đến cùng. Núi rừng đã đốt lửa
lên rồi! Mười ngón tay, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt vẫn
cầm giáo, bắn súng được, anh đã lên đường đi tìm cách mạng, gia nhập
Giải phóng quân, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù cho mẹ con Mai,
cho lũ làng. Tnú đã chiến đấu dũng cảm, đã xung phong xuống hầm ngầm,
dùng tay bóp chết tên chỉ huy, cũng là một thằng Dục khát máu. Anh nhớ
làng, anh xin phép về thăm làng một đêm rồi anh lại ra đi chiến đấu!
Nguyễn Trung Thành,
với khuynh hướng sử thi đã khắc họa Tnú mang bao phẩm chất anh hùng lẫm
liệt. Tnú đi tiếp trong “Đất nước đứng lên”. Màu sắc núi rừng và hơi
hướng Tây Nguyên như ánh hào quang tỏa chiếu dũng sĩ Tnú.
Kết luận
Hình tượng rừng xà nu, hình ảnh những dũng sĩ anh hùng trong truyện
“Rừng xà nu” là hình ảnh đất nước và con người Việt Nam kiên cường, bất
khuất trong thời đại Hồ Chí Minh vừa đậm đà hơi hướng và cảnh quan hùng
vĩ Tây Nguyên. Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi hào hùng. Những anh hùng
dũng sĩ như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,… đại diện cho cộng đồng, chiến đấu
và hy sinh vì sự sống còn của cộng đồng, gắn bó với lịch sử cộng đồng,
được khắc họa bằng những hình ảnh chói lọi, với một giọng văn hào hùng,
say mê, trang trọng, tạo nên những trang văn tráng lệ mang âm hưởng anh
hùng ca.
Truyện “Rừng xà nu” thể hiện nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của Nguyễn Trung Thành vừa trang nghiêm thần kỳ, vừa đầy chất thơ tráng lệ./.
(Sưu tầm)